Thứ Năm, 26 tháng 6, 2014

CHA PHILÍPPHÊ ĐỀ - Linh mục người Kontum đầu tiên của Vùng Truyền Giáo Tây Nguyên




Lm Philípphê Đề
 (1895-1937)

CHA PHILÍPPHÊ ĐỀ - Linh mục người Kontum 
đầu tiên của Vùng Truyền Giáo Tây Nguyên

Cha Philípphê Đề là linh mục người Kon Tum đầu tiên, được phong chức vào năm 1925, sau 77 năm Tin Mừng đến với Tây Nguyên, kể từ ngày thầy sáu Phanxicô Xaviê Nguyễn Do, theo lệnh Đức Cha Stêphanô Cuénot (Thể) mở đường thành công lên miền đất này (1848). Khi đã đặt được cơ sở trên Miền Truyền Giáo Kon Tum (1851), Đức Cha và các Cha liền bắt tay vào việc đào tạo linh mục bản xứ. Một Chủng viện được thiết lập ngay trung tâm miền Kon Tum (tại Rơhai – khu vực nhà thờ Tân Hương ngày nay), nhưng Chủng viện phải sớm đóng cửa vì lý do thủy thổ khắc nghiệt – gây bệnh tật chết chóc cho các chủng sinh đến từ đồng bằng; còn đối với miền Kon Tum thì vì mới đón nhận đạo Chúa, và việc học văn hoá còn sơ khai, chưa đáp ứng được đòi hỏi của việc đào tạo ơn gọi. Chỉ đến khi Trường Cuénot – trường đào tạo thầy giảng (Yao Phu) và ươm mầm linh mục, được xây dựng và đi vào hoạt động (1908), thì công việc đào tạo linh mục mới thật sự bắt đầu trở lại một cách bài bản và có kết quả, dù còn rất khiêm tốn. Và từ ngôi trường – chủng viện Cuénot này (theo cách nói của cha Jannin), đã là nơi xuất thân của nhiều linh mục bản xứ Kon Tum. Cha Philípphê Đề là người đầu tiên trong số đó.

1. Gia đình và thân thế.

          Cha Philípphê Đề sinh năm 1895 tại họ đạo Trại Lý (sau đổi tên Gò Mít – nay là giáo xứ Tân Hương, giáo phận Kon Tum), trong một gia đình đạo đức. Cha ngài mất sớm, còn mẹ là bà Lý là người phụ nữ đức hạnh, giúp việc cha sở Tân Hương lâu năm. Theo cha Phaolô Lê Đình Ban ghi lại, khi cha mới lên Kon Tum (năm 1914), ở Tân Hương làm cha phó cha Alberty (cố Hiền), hàng tuần cứ đến thứ tư thì bà Lý đưa các trẻ em nữ đến nhà xứ để cha khảo hạch giáo lý, dạy dỗ thêm. Cha nhận thấy các em siêng năng sốt sắng và hiểu lẽ đạo khá, thì hay khen bà Lý có lòng đạo đức và biết cách hướng dẫn chỉ bảo các em.

          Được có một người mẹ đạo đức, gương mẫu như vậy, cha Đề hẳn đã hấp thụ một nền giáo dục tốt từ gia đình. Ngay khi còn nhỏ, trẻ Philípphê Đề có tính nết hiền lành, thật thà, ngay thẳng. Chắc chắn việc học giáo lý, tham dự thánh lễ tại nhà thờ giáo xứ, tập làm các việc nhân đức… là những điều mà em thực hành thường xuyên, ít khi nào bê trễ.

2. Con đường tiến đến chức linh mục.

Năm 1908, Trường Chân Phước Cuénot vừa được xây dựng xong và khánh thành (13.01.1908), nhằm đào tạo thầy giảng người dân tộc (Yao Phu) và ươm trồng ơn gọi linh mục. Cha Martial Jannin (Phước) được đặt làm giám đốc trường. Năm ấy cha Đề vừa tròn 13 tuổi, đã được cha giám đốc tuyển chọn vào học trường Cuénot khoá đầu tiên. [Khoá đầu tiên 1908 có tất cả 89 học trò nhập học, qua tuyển lọc còn 50 em;  trong số đó sau này có 24 chú làm Giáo phu, và đặc biệt chỉ một mình chú Philípphê Đề đi đến chức linh mục]. Trong trường Cuénot, các học trò hàng ngày được tập rèn khép mình vào kỷ luật, thực hành kinh nguyện, học tập văn hoá…, và bước đầu học tiếng La tinh, do cha Alberty (Hiền) hướng dẫn. Nhận thấy trẻ Philípphê Đề không những hiền lành đạo đức, mà còn sáng trí, nên năm 1909, Bề trên chọn gởi đi Tiểu Chủng viện Làng Sông (Qui Nhơn) để tu học trở thành linh mục. Tại TCV Làng Sông, chú Đề về sức học cũng vừa theo kịp các bạn đồng lớp, nhưng tính hạnh thì ai cũng khen: hiền lành thật thà, không bao giờ giận ai, không bao giờ mất lòng ai. Hạnh kiểm tốt của chú được cha giám đốc Chủng viện ghi nhận và báo về cha Bề trên Kon Tum, làm ai nấy đều vui mừng và hy vọng. Mãn Tiểu chủng viện, thầy Đề được Đức Giám Mục Địa phận Đông Đàng Trong chỉ định đi thực tập mục vụ 2 năm tại họ đạo Gò Thị (Bình Định). Đây là một họ đạo kỳ cựu, số giáo dân đông và ruộng đất phì nhiêu, nơi đặt Toà Giám Mục (cũ) thời Đức cha Cuénot, có tu viện của các nữ tu Mến Thánh Giá…Nơi đây là quê hương các thánh tử đạo, như thánh Giám mục Stêphanô Cuénot (Thể), thánh  Anrê Năm Thuông (Nguyễn Kim Thông).v.v., càng hun đúc thêm tinh thần truyền giáo và lòng trung thành bền đỗ nơi thầy. Sau 2 năm giúp xứ chu toàn bổn phận, thầy được gọi trở lại tiếp tục tu học tại Đại Chủng viện Qui Nhơn. Và đến năm 1925, thầy Philípphê Đề thụ phong linh mục, do Đức Cha Damien Grangeon (Mẫn), giám mục giáo phận Qui Nhơn truyền chức. Cha Philípphê Đề là vị linh mục địa phương Kon Tum đầu tiên, sau 77 năm kể từ khi Tin Mừng được gieo vãi trên miền đất này vào năm 1848. 

 
Giáo phận Đông Đàng Trong. – Toà nhà chính của 
Trường học-Chủng viện Cuénot, Kon Tum; 
hình vẽ lại từ một tấm ảnh của Cha Jannin*

 3. Hoạt động mục vụ.

          Lãnh nhận chức linh mục rồi, Đức Cha Qui Nhơn sai ngài về lại phục vụ quê hương Kon Tum, và Bề trên Kon Tum (lúc đó là Cha Jannin Phước) chỉ định ngài phụ trách địa sở Kon Sơlăng – Plei Tơuer. Kon Sơlăng – Plei Tơuer là một địa sở gồm 2 sắc dân: Bana và Jơrai. Dân Bana tòng giáo đã lâu, giữ đạo có phần nề nếp hơn; còn dân Jơrai mới theo đạo, và còn vướng nặng với các tập tục mê tín, nên ngài phải vất vả với họ nhiều. Ở đó cũng có một họ nhỏ người Kinh là họ Tân Phước (gốc dân Tân Hương, lập từ năm 1924), dù bổn đạo còn ít song ngài cũng lo lắng cất nhà thờ riêng cho họ.

          Năm 1937, nơi vùng dân tộc Jơrai rộ lên phong trào mê tín dị đoan về Dam Klan (thần xà), loan truyền về “thần mới, đạo mới”. Trong địa sở Kon Sơlăng cũng có nhiều làng đi xin “nước linh” của Dam Klan và giết trâu bò cúng tế. Cha Đề rất lo lắng và buồn lòng. Trong báo cáo gởi Đức giám mục địa phận (Đức Cha Martial Jannin Phước), cha đã trình rằng: Dân Jơrai thiệt yếu đuối về đức tin và cứng cỏi về việc đạo, dù con hết lòng dạy dỗ lo lắng thế nào, thì họ cũng lãng xao như dân ngoại. Bởi lo sợ giáo dân nghe theo kẻ ngoại làm điều mê tín dị đoan, nên ngài cất công đi từ làng này qua làng khác, nhằm lúc mùa mưa lụt, nhiều khi ngài phải ướt cả mình. Do vậy, đầu tháng 6.1937, ngài bị bệnh thương hàn rất nặng, tưởng chừng không qua khỏi. Nhờ ơn Chúa và uống thuốc men, nên bệnh thương hàn đã khỏi, nhưng lại phát qua bệng thũng. Đức Cha đưa ngài về Kon Tum chữa trị, uống thuốc nhà thương Kon Tum., sau chuyển xuống nhà thương Qui Nhơn, nhưng bệnh tình không thuyên giảm. Ngài xin chuyển qua điều trị bằng thuốc Nam, ban đầu theo thầy thuốc ở  huyện Bồng Sơn, sau đến ở nhà một người bà con ở họ Trung Yên (Bình Định), tìm thầy hốt thuốc,  nhưng bệnh tình cứ ban đầu có dấu bớt, sau lại trở nặng hơn. Biết khó chữa khỏi, ngài viết thơ xin Đức Cha và cũng nhắn tin nhờ các cha nói cho mình được về Kon Tum, để nếu có chết cũng ở giữa anh em linh mục và bà con  bạn hữu. Nhưng Đức Cha còn hy vọng nên khuyên ngài ra lại nhà thương Qui Nhơn chữa trị. Lúc ấy ngài rất buồn nhưng cũng sẵn lòng ra đi: Tôi đi là vâng lời Đức Cha, vì vâng lời hơn của lễ, chớ phần tôi thì ước ao về Kon Tum mà thôi!

          Ngài vào nhà thương Qui Nhơn, đến đầu tháng 11/1937 thì bệnh trở lại rất nặng. Và 8 giờ sáng ngày 4/11/1937, Cha Philípphê Đề đã trút hơi thở cuối cùng, an nghỉ trong Chúa. Các Cha trong vùng lân cận lo đem xác ngài về nhà thờ Thác Đá. Nhận được tin, các Cha Kon Tum gồm Cha Phan, Cha Ban, Cha Stutzmann (Báu) và một cha nữa, thay mặt Đức Cha Kon Tum xuống Qui Nhơn lo liệu việc an táng. Giáo dân 2 họ Thác Đá và Trung Yên thay nhau cầu lễ. Và ngày 6/11/1937, thánh lễ an táng Cha Đề tại nhà thờ Thác Đá do Cha Phan, là niên trưởng các Cha người Kinh ở Kon Tum, chủ tế. Cha Ban nói lời cám ơn, và Cha Stutzmann (Báu) làm phép tại huyệt mộ. Cha Philípphê Đề đã được an táng tại Nghĩa địa các đấng tử đạo thời Văn Thân (1885), ở gần bên nhà thờ Thác Đá. Nơi đây, ngài an nghỉ chờ ngày phục sinh cùng các đấng tử đạo.

          Tuy cuộc đời ngắn ngủi với 42 năm tuổi đời, 12 năm linh mục, nhưng Cha Philípphê Đề được biết đến là một linh mục hiền lành, đạo đức, tận tuỵ với công việc mục vụ. Ngài là hoa trái đầu tiên của địa phận Kon Tum, báo hiệu những kết quả tốt đẹp hơn trong việc đào tạo linh mục bản xứ cho miền truyền giáo Tây Nguyên này.

-P. Lê Minh Sơn-         
                                                                                                                      
—————————– 
Tài liệu tham khảo:
1/ Cha Phaolô Ban, “Hạnh tích cha Đề”, Tạp chí Chức Dịch Thơ Tín, Địa phận Kon Tum, số 58, tháng 2/1938, tr. 789-791.
2/ Hlabar Tơbang, Hnam trưng Kuênot, số 1, năm 1911, mục “Măt tôm de hok tro xo”, tr. 1-3.
3/ Kỷ yếu Năm Thánh Yao Phu, Giáo phận Kon Tum 2008, mục“Danh sách học sinh trường Cuenot năm 1908”, tr. 50-51.
4/ Thư của cha Martial Jannin, Hội Thừa sai Paris, năm 1910 (tiếng Pháp) – “Một vườn ươm thầy giảng và linh mục ở xứ Bahnar”.
*Hình trường Cuénot trong bài này được được trích từ bức thư trên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét