Thứ Ba, 6 tháng 5, 2014

DÂN LÀNG HỒ - Chương VIII & Chương IX: Cha Desgouts và Cha Fontaine thoát chết đuối. Bắt đầu học tiếng Ba-na. Du hành từ Kon Kơxâm đến Kon Kơlang. Dân tộc Rơ -ngao. Những điểm đến khác của các nhà thừa sai.



DÂN LÀNG HỒ


Nguyên tác ” LES SAUVAGES BAHNARS “
P. Dourisboure
De la Société des Missions – Étrangères
– PARIS 1929 -

Chương VIII:


Cha Desgouts và Cha Fontaine thoát chết đuối. Bắt đầu học tiếng Ba-na.


Du hành từ Kon Kơxâm đến Kon Kơlang.



Vài ngày sau vụ hỏa hoạn nói trên, chúng tôi suýt nữa bị mất đi hai bạn đồng nghiệp là Cha Desgouts và Cha Fontaine. Cha Desgouts mắc phải một chứng bệnh mà ở Châu Âu ít ai dám nói đến, nhưng ở đây là chuyện quá thường. Đó là bệnh ghẻ, phải  gọi đúng tên nó thôi, ghẻ dầm ghẻ dề, lây lan khắp người. Cộng với bệnh sốt rét, chúng không để ngài nghỉ ngơi giây phút nào, cả ngày lẫn đêm. Khi thấy ngứa ngáy quá sức, Cha hiền hậu này cố làm dịu bớt bằng cách đi tắm sông. Cha Fontaine cũng thường nhờ đến nước sông để làm giảm bớt cơn đau nhức chân.
Ngày kia, Cha Fontaine rủ người bạn già cùng đi tắm sông ở phía dưới, cách nhà chúng tôi độ hai mươi bước. Chỗ này nước sâu, nhưng ở giữa sông có một cù lao nhỏ đầy cát, chung quanh nước cạn, chỉ đến thắt lưng. Nên biết cả hai đều không biết bơi! Chúng tôi có một chiếc thuyền độc mộc do anh em dân tộc gọt đẽo rất khéo. Cha Fontaine vừa là tay chèo dở, vừa là tay bơi tồi, lại mạo hiểm đến mức liều lĩnh! Họ cùng nhau đến cồn cát và tắm ở đó. Khi tắm xong, Cha Fontaine rất tự hào vì đã chèo được chiếc thuyền từ bờ sông đến cù lao, xa lắm là 5 thước nước, thế mà ngài tưởng mình đã là tổ sư thuỷ đạo, có thể chèo thuyền đi xa mà không gặp nguy hiểm gì! Ngài bèn đề nghị với Cha Desgouts cùng thực hiện một cuộc du ngoạn bằng thuyền, mà Cha Desgouts lại là kẻ vốn tin ở người hơn là ở mình, nên tưởng rằng bạn mình cũng rành chèo chống. Gần cù lao, nước sông Dak Bla chảy êm đềm, nhưng phía dưới một chút, dòng nước cuồn cuộn mỗi lúc một nhanh hơn, và cuối cùng chảy như thác trên các tảng đá. Khi trôi trên mặt nước phẳng lặng, tay chèo bất đắc dĩ của chúng ta lái thuyền cũng tạm được, nhưng khi đi xa hơn một chút thì lạc tay lái, thuyền và người bị nước cuốn trôi mỗi thứ mỗi nơi. Hai phút sau, chiếc thuyền không người trôi dạt một mình phía dưới thác. Nơi khúc sông nguy hiểm như thế, ngay cả đối với một tay bơi đầy kinh nghiệm cũng khó bề né thoát, huống chi mấy Ông Cố nhà mình, bình thường là chắc chắn bể đầu, nát thân; nhưng Chúa Quan Phòng đã chăm sóc họ.
Họ đã leo lên được bờ, với cái giá phải trả là mình mẩy bầm tím. Cha Desgouts lên bờ bên trái, còn Cha Fontaine sang bờ bên phải. Nhưng vì cả hai bên bờ sông cỏ cây dày đặc, hơn nữa, một người lên bờ phía trên, một người phía dưới nên ai nấy đều tưởng bạn mình đã thiệt mạng. Cha Desgouts về đến nhà trước, ướt mèm và lấm bùn, mình đầy thương tích và đau buồn vì tưởng rằng Cha Fontaine đã chết. Đang khi ngài thuật lại cho chúng tôi nghe cuộc mạo hiểm vừa qua, và cùng chúng tôi thương khóc cho kết cục buồn thảm của người bạn chí thiết thì chợt nghe tiếng réo bên kia sông: “Hãy đem cho tôi chiếc thuyền!” Nỗi đau nhanh chóng tan biến nhường chỗ cho niềm hân hoan vui sướng. Chúng tôi tếu táo rất lâu về câu chuyện này. Tôi thuật lại cốt để cho bạn đọc có dịp cùng chúng tôi, một lần nữa, cảm tạ Chúa nhân lành như một người Cha đã ân cần chăm sóc các thừa sai của Người.
Trong khi đó, dân làng Kon Kơ Xâm dần dần quen với sự hiện hiện của chúng tôi. Họ ít sợ hơn, không còn mấy ai tin vào những lời vu khống nhắm đến chúng tôi. Thậm chí, nhiều người còn đến nhà chúng tôi chơi nữa khi họ có thứ gì đó muốn bán. Chúng tôi nghĩ đã đến lúc phải tiếp cận họ. Nhưng “dục tốc bất đạt”, thay vì cùng vào làng một lượt với nhau, chúng tôi chỉ xin ông Hmur nhận ba người vào ở nhà ông để học tiếng Ba Na. Ông đã vui vẻ nhận lời. Từ khi chúng tôi đến miền dân tộc cho tới lúc bấy giờ, chúng tôi buộc phải sống xa họ, sống trong rừng. Vậy làm sao mà học được tiếng khi không có phương tiện nào để học? Khi không giao tiếp với ai? Cũng chính vì vậy, sau nhiều tháng ở đây, chúng tôi chỉ biết lỏm bỏm một vài từ Ba Na thôi.
Trên đời này, ít có điều gì khó hơn là học một ngôn ngữ mà không có sách vở, không có từ điển, không có sách ngữ pháp, không có người thông dịch; và nhất là những người nói ngôn ngữ đó lại là những người dân khốn khổ, hiểu biết hạn chế, trí khôn chậm phát triển. Người dân tộc sẽ dễ dàng nói cho bạn biết một vật mà bạn thấy, bạn chỉ tay vào vật đó mà hỏi tiếng dân tộc gọi là gì. Nhưng nếu là những gì trừu tượng thuộc lĩnh vực trí tuệ hay luân lý, tất cả những gì mà giác quan không thể tiếp xúc được thì bạn phải tự mình đoán lấy. Nếu tình cờ bạn nghe được một từ thuộc loại này, rồi đem so sánh với nhiều hoàn cảnh khác nhau mà bạn nghe áp dụng, bạn tưởng mình đã tạm nắm được nghĩa của từ đó. Thế nhưng, vài ngày sau, bạn lại thấy nghĩa đó là sai hoặc chưa đúng lắm! Nhưng chớ có nhờ người dân tộc giải thích! Để giải thích một từ nào đó, họ chỉ biết lặp lại từ đó mà thôi. Ví dụ bạn hỏi: ‘Tin’ là gì? Họ sẽ trả lời: ‘Tin’ nghĩa là tin. Tốt lắm! Nhưng hãy giải thích một cách khác đi, ‘Tin’ có nghĩa như thế nào? Kìa, tôi quả quyết với bạn ‘Tin’ có nghĩa là tin mà! Có nói thêm nữa cũng vô ích, vì họ sẽ rất ngạc nhiên thấy bạn không thể hiểu nổi ‘Tin’ có nghĩa là tin. Đơn giản thế thôi mà!
Vậy mà để giảng Đạo, để giải thích tín lý cao siêu bằng một thổ ngữ rất nghèo từ ngữ trí thức, thế thì cần phải nắm vững và biết tường tận thổ ngữ đó. Cho nên, một trong những phận sự thiết yếu của người thừa sai là cố học cho rành ngôn ngữ mà vị này phải dùng để giảng dạy, để ban phép giải tội, để thi hành thừa tác vụ của mình. Dĩ nhiên, Đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, và chỉ một mình Người, qua ân sủng mới có thể chạm đến và chinh phục tâm hồn con người. Nhưng cách thức thông thường, Chúa Quan Phòng hay sử dụng là luôn để cho các tông đồ của Người lấy sự nhiệt tình hăng hái và kiên trì mà ân cần sử dụng các phương tiện thích hợp để trợ giúp cho ân sủng tác động. Một trong những phương tiện đầu tiên là phải nói thông thạo ngôn ngữ của những người mà mình muốn rao giảng Tin Mừng. Thỉnh thoảng, khi một vị thừa sai đã bắt đầu có thể làm cho người dự tòng hiểu mình thì vị thừa sai ấy bị cám dỗ ngừng lại, muốn bỏ ngang việc học ngôn ngữ, vốn khổ nhọc và khô khan này. Tôi xin phép nói ngay rằng đó là một sai lầm nghiêm trọng, rất thiệt thòi cho phần rỗi các linh hồn.
Tôi xin trở lại câu chuyện. Cha Combes, Cha Fontaine và tôi, chúng tôi dọn đến ở nhà ông Hmur. Sáng sớm và chiều tối là thời gian duy nhất trong ngày mà anh em dân tộc ở nhà. Chúng tôi lên nhà rông để học vài ba từ Ba Na. Mỗi người cầm bút chì và một mảnh giấy, ngay khi tưởng là đã nắm được nghĩa của một từ thì vội ghi lại. Đến lúc anh em dân tộc đã đi rẫy hoặc đi ngủ, thì ba anh em chúng tôi họp lại để so sánh những điều đã ghi lại, và thống nhất những điều mà chúng tôi đã học được, hoặc tưởng là đã hiểu được. Đặc biệt chúng tôi hỏi ông Hmur tốt lành, người thường xuyên thức khuya với chúng tôi. Ban ngày, chúng tôi cố gắng khắc ghi những điều đã hiểu được hôm trước, và ngày nào cũng như thế. Sau một tháng rưỡi ở nhà ông Hmur, chúng tôi có được một quyển sổ lớn ghi các từ, nhưng phần nhiều là những từ ít giá trị.
Khi rời Kơ Lang, chúng tôi đã để lại vài người để trông nhà. Căn nhà này được dùng để làm trạm dừng chân cho các liên lạc viên của chúng tôi khi họ về gặp Đức Cha Cuénot, hoặc từ đó trở lại đây; đôi khi chúng tôi cũng ghé qua đó. Một biến cố nhỏ đã xảy ra trong chuyến đi của Cha Combes và tôi mà tôi hằng ghi nhớ để tri ân Đức Trinh Nữ Maria. Chúng tôi chỉ có hai người, hành trang không có gì ngoài sách kinh nhật tụng và cơm tối bỏ trong gùi sau lưng.
Nơi miền sơn cước này vốn không có quán trọ, nếu du khách muốn ăn cơm thì không bao giờ vào làng, trừ trường hợp có công việc; thường thì họ ăn bên bờ suối. Tại xứ này, hiếm khi đi thật lâu mà không gặp con suối nào, bình thường nước suối mát và trong. Tới giờ ăn, ta dừng lại bên bờ suối, hái vài lá to làm đĩa, dùng muỗng đã có từ thời nguyên thuỷ là…năm ngón tay! Khi khát thì bụm tay lại và tha hồ múc nước nơi suối. Ở Pháp, bờ suối khiến ta liên tưởng tới thảm cỏ xanh rì, nhưng ở đây không hề có cỏ ngắn và dày, chỉ toàn một mớ bụi cây cằn cỗi. Do vậy, người ta ngồi trên mặt đất trơn tru. Đối với anh em dân tộc, hút thuốc là phần không thể thiếu sau mỗi bữa ăn, và ống điếu là vật bất ly thân, mọi nơi mọi lúc. Mỗi lần dừng chân ở bất cứ nơi đâu để ăn cơm, thì việc đầu tiên họ làm là đánh lửa, bằng đá lửa và ít bùi nhùi, những thứ luôn mang theo mình. Đôi khi lửa để nướng thịt rừng săn được, bởi vì khi ở nhà hay ở rẫy người dân tộc ăn cơm không, nhưng họ lại dành chút ít thịt săn được để ăn khi đi đường. Khi đi, trong gùi thường có một lát thịt hun khói hoặc vài con cá khô. Trong trường hợp này, họ dùng dao thường đeo ở thắt lưng, chặt một ống tre và nhét miếng ngon vào đó. Cái nồi tự chế này, khi đốt cháy thành than sẽ làm món ăn chín tới. Và người ta gọi ăn kiểu đó là ăn thịnh soạn đấy!
Hôm đó, Cha Combes và tôi đã không đi con đường quen thuộc từ Kon Kơ Xâm đến Kơ Lang. Chúng tôi muốn đi đến làng Mơ Tông vì có việc gì đó tôi không nhớ nữa. Đến khoảng trưa, chúng tôi ăn cơm và thay vì nghỉ trưa, chúng tôi đọc kinh nhật tụng rồi lại lên đường. Con đường mòn chúng tôi đang đi dẫn chúng tôi vào một rẫy bắp. Ở giữa rẫy có hai thiếu nữ dân tộc đang làm việc. Chúng tôi nghĩ rằng chắc các cô biết đường và chúng tôi tiến đến chỗ họ. Lập tức, hai cô rú lên một tiếng kinh hãi, rồi ôm chầm lấy nhau. Họ tưởng chúng tôi đến định bắt cóc họ! Làm sao cho họ an tâm? Chúng tôi thì chưa biết đủ tiếng Ba Na để nói chuyện với họ. Chúng tôi vội vàng rời xa họ và đi về phía ngược chiều có nguy cơ lạc đường.
Chẳng bao lâu sau đó, tôi cảm thấy những triệu chứng ớn lạnh đầu tiên của cơn sốt. Đường đi còn xa, vì thế tôi cố gắng giữ bình tĩnh và bước đi thật nhanh. Nhưng cơn sốt lên cao, hai đầu gối tôi bắt đầu run lẩy bẩy. Tôi nói với Cha Combes: “Tôi nghĩ tôi phải dừng lại đây thôi vì toàn thân đã lạnh run”. Ngài trả lời: “Nhưng tìm đâu ra trong rừng một nơi trú ẩn để tránh cơn giông?” Mải lo cho cơn sốt, tôi đã không thấy những đám mây to đen kịt đang từ phương Bắc kéo đến phía chúng tôi. Phút chốc sấm nổ vang trời. Thế nhưng, đôi chân tôi không đứng vững được nữa. Tôi ngã nhào bên vệ đường. Người bạn đồng hành của tôi nhìn thấy gần đó có cái chòi tranh bỏ hoang trong rẫy, liền nói với tôi: “Hãy cố lê bước đến cái chòi kia; có lẽ ở đó có chỗ trú mưa. Bộ Cha không thấy nằm trên đất, dưới cơn mưa trong lúc sốt nặng như thế này thì chắc chắn là chết hay sao?” Tôi gắng sức đứng lên, và nhờ ngài dìu, tôi đi thêm được vài bước. Nhưng đó là những cố gắng cuối cùng và tôi lại ngã quỵ xuống đất. Tôi nói với ngài: “Cha thân mến, tôi không thể nào bước nổi nữa rồi. Có làm sao thì xin tùy ý Chúa. Chính vì Người, vì lòng yêu mến Người mà chúng ta thực hiện cuộc hành trình này.” Trong lúc đó, cơn giông đã đến và mưa xối xả trên đầu chúng tôi.
Tôi nhớ trong hoàn cảnh bi đát đó, tôi đã quên cầu khẩn Đức Mẹ: “Tôi thật khốn nạn và vô ơn! Nếu tôi nhớ đến Mẹ Maria thì chắc Người đã cứu giúp tôi. Con xin lỗi, lạy Mẹ, con xin lỗi, sự bội bạc của con không thắng được lòng từ ái của Mẹ. Sớm muộn gì Mẹ cũng an ủi những kẻ đau khổ. Đây là lúc Mẹ tỏ lòng từ bi của Mẹ. Xin Mẹ làm dịu cơn sốt của con hoặc làm cho đôi chân run rẩy của con vững chắc.” Thầm thì những lời ấy xong, tôi thử bước đi và bỗng nhiên tôi cảm thấy sức khỏe hồi phục. Tôi vui sướng thốt lên: “Ôi lạy Mẹ! Ôi Mẹ của con! Con là đứa con khốn nạn, vô ơn. Phải chi con kêu lên Mẹ sớm hơn, thì hẳn Mẹ đã đến giúp con rồi. Vinh danh Mẹ!” Và tôi đã bước đi thật mau, bỏ Cha Combes phía sau đến hai mươi bước làm ngài vô cùng ngạc nhiên. Tôi không dám khẳng định đó là một phép lạ. Nhưng dù có sợ làm bạn đọc cười chê, thì tôi cũng không thể không bày tỏ lòng biết ơn, và hiện giờ tôi vẫn nói như đã từng nói: “Vinh danh Mẹ! Vinh danh Mẹ! Ôi Mẹ Maria!” Cơn giông rất lớn, nhưng chỉ trong chốc lát đột ngột chấm dứt, nhường chỗ cho bầu trời quang đãng. Tuy nhiên, chúng tôi “ướt như chuột lột”. Dù biết rằng không có gì nguy hiểm cho bằng đang cơn sốt mà áo quần ướt đẫm, nhưng vì không ai mang theo quần áo để thay, nên chúng tôi đành vắt khô và tiếp tục cuộc hành trình. Không biết vì cơn nóng sốt hay vì phấn khởi đã nhận ơn lạ quá bất ngờ của người Mẹ tốt lành trên hết mọi người mẹ, mà suốt quãng đường còn lại, tôi không ngừng lớn tiếng chúc tụng Mẹ Maria. Tôi đã khóc vì biết ơn Mẹ. Tôi đã khóc vì hổ thẹn thấy mình quá khốn khổ. Cuối cùng, tôi thấy cần nói thêm tôi đã đi hết quãng đường còn lại mà không thấy mệt chút nào.
Đến chiều, chúng tôi tới làng Mô Tông. Ở đó, chúng tôi lại gặp một nguy hiểm nghiêm trọng khác. Ngày hôm trước, dân làng đã đi giao chiến với một làng khác và họ đã giết được một kẻ thù, việc hiếm thấy trong các trận chiến vô nghĩa của người Ba Na. Các chiến binh vừa trở về làng sau cuộc chiến. Nhưng thông thường làng bị tấn công trước hiếm khi từ bỏ việc đuổi theo quân địch khi địch rút lui. Vì vậy, dân làng Mơ Tông e ngại một cuộc công kích vào chính ngày hôm đó. Vì sợ hãi, nên họ đã cắm đầy chông xung quanh làng. Khi đến cách chiến luỹ độ trăm bước, thấy thế, Cha Combes và tôi không dám mạo hiểm băng qua, bèn lên tiếng gọi dân làng ra mở lối cho chúng tôi. Nhưng lúc đó tất cả dân làng đang tụ tập ở nhà rông cúng thần chiến tranh và họ cũng đã ngà ngà say. Nghe tiếng chúng tôi gọi, họ tưởng chúng tôi là kẻ thù đang được mong đợi, thế là họ vội chụp lấy khí giới, kẻ cầm cung, người mang dao, người cầm giáo. Khốn nỗi, tuy chúng tôi đứng xa tầm bắn của họ, nhưng vì cỏ cao, màn đêm vừa buông xuống, nên chúng tôi không nhìn thấy họ mà họ cũng chẳng thấy chúng tôi. Làm sao đây? Chạy trốn chăng? Nhưng làm như thế thì càng chứng tỏ điều họ nghi chúng tôi là kẻ thù là đúng. Chúng tôi bèn gào thật to, nói tên mình ra vì trong vùng ai cũng biết. Cuối cùng, một người ít say hơn những người khác đã nghe rõ tên chúng tôi và la lên: “Ngừng lại, ngừng lại, đó là mấy người Kinh. – Các ông là ai? – Chúng tôi là Bok Bê và Bok Ân, anh em hãy mở lối cho chúng tôi vào với.”
Sự nguy hiểm mà chúng tôi vừa trải qua do sự bất cẩn của dân làng, đã khiến họ đối xử rất tử tế với chúng tôi. Ngày hôm sau, Cha Combes một thân một mình đi Kơ Lang. Còn tôi buộc lòng phải nằm lại Mơ Tông đúng một tuần lễ chờ qua cơn sốt. Đó là cơn sốt mạnh nhất trong vòng mười lăm năm nay, đến độ làm rung rinh căn nhà của anh em dân tộc cho tôi trú nhờ và cơn mê sảng kéo dài rất lâu. Khi anh em trong đoàn đã bắt đầu lo lắng, thì họ thấy tôi về đến Kon Kơ Xâm trong bộ dạng xanh xao, ốm yếu. Cha Combes cười và nói với tôi: “Cha còn nhớ con suối ở Kơ Lang mà Cha đã nhảy qua trước kia không? – Nhớ chứ, tôi nhớ con suối đó và cả dãy Pyrénées của tôi nữa. Căn bệnh sốt rét kinh tởm này đến cả súc vật cũng mệt với nó!” Ngài nói tiếp: “Nào, dù vậy, vẫn cứ vui, hoan hô! Ta cứ sống cho đến lúc chết, và bấy giờ, bệnh sốt rét hay bệnh gì đi nữa cũng sẽ dứt khoát được chữa lành. Amen.”

Chương IX: 


Dân tộc Rơ -ngao.


Những điểm đến khác của các nhà thừa sai.


Chúng tôi đã định cư ở Kon Kơ Xâm được nhiều tháng rồi, thế mà vẫn không hay biết, ở gần chúng tôi, có hay không một vùng đồng bằng mà Đức Cha Cuénot đã nghe nói đến và chỉ thị cho chúng tôi phải tìm kiếm cho bằng được. Như đã nói, ông Hmur lo đi mua gạo khắp các làng dân tộc trong vùng giúp chúng tôi. Thế là, với mục đích đó, sau chuyến đi đến làng Kon Rơ Bang, một vài người dân làng này vì tò mò và vì hám lợi đã táo bạo đến tận nhà chúng tôi để đích thân bán gạo. Họ nói với chúng tôi rằng ngay phía bên kia dãy núi Kon Kơ Xâm có một đồng bằng lớn trải dài hai bên bờ sông Dak Bla, cách chừng hơn một ngày đường về phía Tây. Người ta cấm ông Hmur không bao giờ được dẫn chúng tôi đến đó và đe dọa ông khủng khiếp đến nỗi ngay cả việc nói cho chúng tôi biết có một đồng bằng như thế, ông cũng không dám. Chúng tôi hết sức vui mừng với khám phá này mặc dầu chúng tôi chưa thấy phương thức nào để thi hành chỉ thị của Đức Giám Mục. Từ ngày đó, chúng tôi không ngừng thúc đốc dân làng Kon Kơ Xâm đưa chúng tôi đến xứ sở người Rơ Ngao.
Cuối cùng, do bị hối thúc quá, một người anh em trong dân làng hứa sẽ làm chúng tôi thỏa mãn và hẹn ngày dẫn chúng tôi đi. Nhưng bị dân làng khiển trách nặng nề và vì sợ mất danh dự không thể trở về với gia đình, nên anh ta mới bày ra một kế hoãn binh. Như đã nói, con sông Dak Bla chảy từ Bắc xuống Nam để rồi khi đến Kon Kơ Xâm đột ngột chuyển hướng chảy về phía Tây. Do đó, tại đây mỏm đất bị nước chảy xiết tạo nên một bán đảo. Đến ngày hẹn, anh chàng dẫn đường cùng chúng tôi vượt sông Dak Bla ngay trước nhà. Chúng tôi ngạc nhiên biết bao, bởi sau khi đã đi được hơn nửa tiếng đồng hồ rồi mà vẫn thấy còn lòng vòng trên sông Dak Bla! Nơi đây không có làng, cũng chẳng có thuyền mà nước lại quá sâu không thể lội qua được. Anh chàng dẫn đường ngỏ lời muốn đi tìm một chiếc thuyền; rồi anh bơi qua sông, mất hút vào bờ bên kia. Chúng tôi chờ anh suốt cả ngày hôm đó, bụng rỗng tuếch. Khi đêm đến, chúng tôi buộc phải quay về bước đi buồn tênh! Chàng trai đáng thương này đã phải trả giá khá đắt vì tội lừa dối: suốt gần hai năm sau anh không dám xuất hiện trước chúng tôi và nếu tình cờ gặp thì anh cũng bỏ chạy mất tăm. Sau này chúng tôi mới biết người ta đe dọa anh khủng khiếp đến nỗi anh phải cố ý đánh lừa chúng tôi vì quá sợ hãi.
Trong lúc đợi ở bờ sông, chúng tôi đã tắm và tôi đã bỏ quên trên bãi cát tượng cây Thánh giá mà tôi thường đeo trên cổ. Dân làng Kon Kơ Xâm đi qua đó và đã nhặt được. Họ bàn với nhau xem sờ vào vật này có bị nguy hiểm gì không. Và lòng tham đã thắng mê tín. Họ đã lấy tượng Thánh giá đem về. Tôi nói tham lam là không có ý ám chỉ họ muốn chiếm đoạt tượng Thánh giá. Việc trộm cắp là việc không hề có hay hiếm khi xảy ra nơi dân tộc Ba Na. Nhưng họ lại có thói quen bắt người đánh rơi đồ vật phải chuộc. Và họ hy vọng tôi sẽ chuộc vật bị rơi với giá cao. Khi về đến gần làng, thì sự mê tín lại thắng thế. Vật kỳ lạ này chắc phải có uy lực gì siêu phàm lắm đây? Hình tượng này phải chăng là một vị thần, sao lại dám đem vào làng? Làm sao đây? Sau khi suy tính kỹ càng, họ đem treo tượng Thánh giá trên một cây ngoài làng và đến hỏi chúng tôi có muốn chuộc lại hay không. Vì họ đòi giá chuộc quá cao, Cha Combes nói với họ đó là vật linh thiêng, không thể bán, cũng chẳng thể chuộc lại được. Vậy là những người đáng thương này phát sợ, họ xin chúng tôi đích thân đến gỡ xuống, nhất là đừng để xảy ra tai ương gì cho họ vì đã dám chạm đến vật đó.
Ít ngày sau, anh em dân tộc làng Kon Rơ Bang nhận thấy rằng đến tận nơi bán gạo cho chúng tôi có lợi nhiều hơn, nên đã trở lại một lần nữa và đồng ý đưa chúng tôi đến làng họ. Cuộc hành trình đi bằng thuyền trên sông Dak Bla, chỉ có Cha Combes và Thầy Sáu Do tháp tùng. Trở về, hai người đã thuật lại cho chúng tôi nghe biết bao điều kỳ thú về xứ Rơ Ngao: “Cuối cùng, chúng ta cũng đạt được mục đích của cuộc thám hiểm. Xứ Rơ Ngao thật đúng là miền đất đáp ứng được nguyện vọng của Đức Cha.” Giống như rèn sắt khi còn nóng, chúng tôi liên tiếp tổ chức nhiều chuyến du khảo. Kết quả là mua được một căn nhà ở làng Rơ Hai cạnh Kon Rơ Bang, với giá năm quan tiền không hơn không kém. Người chủ bán nhà và ra đi xây nhà khác. Lập tức chúng tôi cho Thầy Sáu và vài người Kinh trong đoàn nữa đến ở trước, chúng tôi thong thả đến sau.
Đến Rơ Hai được vài ngày trong căn nhà mới, Cha Combes, Thầy Sáu Do, và tôi, chúng tôi lại theo dòng Dak Bla mở cuộc thị sát mới. Chúng tôi tự nhủ: “Sông nước là của chung mọi người. Nếu các làng ở hai bên sông không đồng ý mở cửa cho chúng ta vào, thì chúng ta chèo thuyền đi tiếp, có sao đâu!” Chúng tôi mang theo gạo đủ dùng, rồi “đến đâu hay đến đó!” Đi được khoảng hai tiếng, chúng tôi gặp một người đàn ông tự xưng là chủ làng và mời chúng tôi đến nhà ông. Ông ta ở làng Tơ Bâu, đi bộ chừng mười lăm phút trong đất liền. Chúng tôi để thuyền trên bờ và đi theo ông ta. Năm phút sau chúng tôi phải dừng chân lại, vì có cuộc gặp gỡ khác không dễ chịu lắm. Tôi muốn nói đến cuộc gặp gỡ với hai mẹ con nhà cọp, mà cọp con đã lớn bằng một con cừu đực. Hai mẹ con đang men theo một lối mòn khác, cách chúng tôi chừng năm mươi bước. Thấy chúng tôi, chúng không bối rối gì cả. Cọp mẹ dừng lại quan sát chúng tôi vài giây, rồi thản nhiên bước đi. Đó là lần đầu tiên tôi thấy nhãn tiền một con cọp hoang và trong khoảnh khắc, tim tôi đập mạnh khác thường. Cha Combes và tôi thận trọng đến sát hai gốc cây để leo lên trong trường hợp con thú dữ tỏ ra thù nghịch. Nhưng, tạ ơn Chúa, sự đề phòng đó xem ra vô ích.
Hai con cọp vừa khuất vào rừng rậm, thì một vật lạ khác làm chúng tôi phải trố mắt nhìn. Một pho tượng người đàn ông, không biết làm bằng kim loại gì, cao độ 1m, chân tay được đúc rất nghệ thuật. Pho tượng đứng dưới một gốc cây, chung quanh cách mười lăm bước có một cái mương bảo vệ, bên ngoài là một hàng cây lớn bao quanh. Chắc chắn không phải là một người dân tộc nào đó đã đúc pho tượng này. Tượng nằm ngay giữa rừng và một vài vật khác nữa đều được làm bởi những bàn tay khéo léo hơn anh em Ba Na rất nhiều, khiến chúng tôi tin rằng trước kia ở xứ này đã có một giống dân khác từng sinh sống, văn minh hơn người dân tộc hiện thời.
Người đã gặp chúng tôi ở bờ sông và đưa chúng tôi tới làng Tơ Bâu tên là Piunh. Ông đón chúng tôi vào nhà và tiếp đãi khá tử tế. Sáng hôm sau, ông ta tình nguyện chèo thuyền đưa chúng tôi đến Plei Krong, một làng khá lớn nằm ở ngã ba sông Dak Bla và sông Pô Kô. Sông Pô Kô cũng lớn bằng sông Dak Bla, chảy từ Bắc xuống Nam trước khi tháp nhập vào nhau. Cả hai con sông tạo thành một con sông lớn, chảy về hướng Tây Nam, rồi được sông Bơ Nông tăng cường thêm, tất cả đổ vào sông Mê Kông. Plei Krong là địa điểm cuối cùng của đồng bằng Rơ Ngao. Giữa đồng bằng này và những đồng bằng trải dài từ phía Tây cho đến Lào, có một dãy núi chiếm một vùng khá rộng từ Bắc xuống Nam, song song với các dãy núi xứ Ba Na. Trong đêm chúng tôi nghỉ tại làng Tơ Bâu, tôi lên cơn sốt khá nặng. Tôi không thể tháp tùng Cha Combes và Thầy Sáu trong chuyến khảo sát mới này, đành phải nằm lại nhà anh Piai, em ông Piunh.
Tôi muốn thuật lại một câu chuyện nhỏ đã xảy đến cho tôi trong đêm tạm trú tại làng Tơ Bâu. Chúa đã cho phép xảy ra để tôi đừng quên người thừa sai phải luôn tin cậy vào sự quan phòng của Chúa, Đấng biết rõ từng sợi tóc trên đầu chúng ta và không để sợi nào rơi xuống đất ngoài ý Người. Thế là, sau một ngày mệt mỏi và chán ngán vì sốt rét, tôi nằm nghỉ trên chiếc chiếu cạnh bếp lửa. Gần bên tôi là chiếc gùi tôi thường mang sau lưng trong các chuyến đi mà lần này vỏn vẹn chỉ có một bộ quần áo, vài dây chuỗi hạt thuỷ tinh và ít miếng thiếc. Hai đồ vật sau dùng làm tiền để đổi gạo ăn hằng ngày. Lúc ấy, vài thanh niên và một người lớn tuổi ngồi xổm bên bếp hút thuốc và nói chuyện rì rầm. Tôi nhắm mắt để dỗ giấc ngủ nhưng không ngủ được. Bọn họ tưởng tôi đã ngủ say, bèn trao đổi với nhau: “Có thứ gì trong gùi nhỉ? Nếu có vật gì quý giá thì chúng ta sẽ khử trừ người lạ này. Nó ngủ, nó không thấy chúng ta đâu. Thử xem nào!” Thế rồi, một thanh niên lén đến gần, lấy chiếc gùi đổ ra trước mặt cả bọn. Chúng không hài lòng lắm khi thấy đồ đạc quá “bèo” của tôi, nên người đàn ông lớn tuổi nhất trong bọn nói: “Bỏ lại tất cả vào gùi. Không có gì đáng để làm hại một mạng người. Vả lại, ai biết được người lạ này thế nào và có uy lực ra sao?” Thế là họ tuyên bố tha bổng cho tôi! Và phút hồi hộp nghẹt thở đã qua đi. Sáng ngày, nhớ lại những gì đã xảy ra đêm trước, tôi không muốn ở lại làng này lâu hơn nữa. Mặc dầu các bạn tôi đi khảo sát chưa về, tôi cũng một mình rời khỏi làng để trở lại Rơ Hai, chẳng ngại mẹ con nhà cọp đón đường và cũng không chắc có tìm được thuyền mà về nhà không. Chúa nhân lành lo liệu hết mọi sự và tôi đã về đến nhà bình an.
Sau đó chúng tôi biết rằng làng Tơ Bâu là một làng cá biệt. Dân làng toàn là quân hung ác, không giống như anh em dân tộc các làng khác. Na ná như thị tộc của Romulus xưa kia, tập hợp những người trốn nợ hoặc quân du thủ du thực tứ xứ. Thế nhưng Chúa nhân lành chỉ để kẻ dữ sống nhằm sinh ích cho người lành, nên làng này đã giúp chúng tôi nhiều việc quan trọng khác, lòng quảng đại của chúng tôi dành cho dân làng được đáp trả bằng sự tận tâm của họ, trong thời buổi mà các làng dân tộc khác ít dám giao thương với chúng tôi. Thầy Sáu kết nghĩa anh em với ông Piunh theo nghi thức quen thuộc. Tình bạn này chúng tôi vốn đã hổ thẹn và không muốn kết giao, bởi các hành vi tham lam của ông ta và của bạn bè ông, nhưng sau này việc kết thân lại giúp ích cho chúng tôi rất nhiều. Sự kiện này cũng như nhiều việc khác nữa, tôi đã hoặc sẽ thuật lại, chứng tỏ Chúa Quan phòng luôn phù giúp chúng tôi khi cần, nhiều khi rất bất ngờ và ngoài ý muốn của chúng tôi.
Cha Combes trở về Rơ Hai sau tôi một ngày. Chuyến đi đã đem lại nhiều khám phá mới. Sau đó không lâu, chúng tôi lại lên đường và nhờ một vài lần đi dọc theo sông Dak Bla, qua cả xứ Rơ Ngao, chúng tôi biết được nhiều bộ tộc khác nhau chiếm cứ các phần đất phía Bắc và phía Nam.
Mặc dù được biết với một tên gọi chung là Ba Na, nhưng mỗi bộ tộc đều có tên riêng của mình. Phía Bắc là bộ tộc Xê Đăng. Người Xê Đăng nói chung to cao hơn, thô bạo hơn và khó giao tiếp hơn người Ba Na vốn hiền hậu và lịch sự. Ngược lại, người Xê Đăng cũng cố chấp hơn trong các tập tục mê tín, trong khi dân Rơ Ngao thì lười biếng và dửng dưng. Ngoài việc đồng áng như các bộ tộc khác trong vùng, dân Xê Đăng còn làm đồ sắt vài tháng trong năm. Trong những dãy núi họ ở, mỏ sắt rất phong phú và nếu căn cứ trên số lượng và chất lượng của loại sắt mà họ thu hoạch được. Với những phương tiện hết sức thô sơ, ta có thể đoán không sai các mỏ sắt này rất có chất lượng. Tất cả các người dân tộc mà tôi biết đều mua dụng cụ và khí giới nơi bộ tộc Xê Đăng. Tiện thể cũng cần biết: sắt, vải bông và muối là ba mặt hàng buôn bán thông thường nhất ở xứ dân tộc. Người Xê Đăng nắm giữ độc quyền về sắt. Người Rơ Ngao cũng như người Ba Na phía Tây thì trồng bông và dệt vải. Người Ba Na phía Đông, gần An Nam, không có bông, không có sắt, thì buôn bán muối do phía Trung Châu cung cấp. Trong thời điểm tôi đang nói đây, bộ tộc Jrai chiếm cứ một phần đất rộng lớn ở phía Nam sông Dak Bla, nay đã phân tán đi các nơi, sát nhập vào các bộ tộc khác vì sợ dân Ha Drong.
Chúng tôi đã thông báo cho Đức Cha Cuénot biết tất cả những khám phá vừa qua và ngài đã phúc đáp bằng những chỉ dẫn. Qua thư, ngài phân công cho anh em chúng tôi như sau: Cha Fontaine phải ở nơi dân Jrai; Cha Combes được đặt làm Bề trên miền truyền giáo, đại diện Đức Giám Mục và tiếp tục chăm lo cho dân Ba Na; còn tôi phải đến với các chú thợ rèn Xê Đăng. Tại Rơ Ngao (làng Rơ Hai), Thầy Sáu Do và Cha Desgouts cùng với một số anh em trong đoàn đặt bản doanh tại đó. Ý định của Đức Cha là muốn dần dần thiết lập tại xứ Rơ Ngao tốt đẹp này một trang trại kiểu mẫu, vừa là một chiến luỹ đối phó với mọi trường hợp thù địch từ phía người dân tộc, vừa là một địa điểm tập trung, là hậu cần tiếp tế cho các thừa sai trong miền. Cuối cùng, Đức Cha cũng chưa từ bỏ ý định thiết lập một Chủng Viện ở đó. Cũng vì vậy mà ông bạn già của chúng tôi vẫn giữ nhiệm vụ tuyên uý cho cơ sở Rơ Hai, trong khi  chờ đợi triển khai Chủng Viện tương lai, để rồi ngài sẽ thi hành tất cả phận vụ và quyền hành của một Cha Bề trên. Chúng tôi đã nhận biết thánh ý Chúa qua mệnh lệnh của Đức Giám Mục. Vấn đề còn lại là tìm phương tiện để mỗi người đến được nơi đã chỉ định. Cha Combes không phải chuyển đi đâu cả vì đang ở đúng nơi chỉ định rồi, còn Cha già hiền hậu Desgouts chỉ có việc lên thuyền xuôi theo dòng sông đến Rơ Hai. Phần Cha Fontaine và tôi có phần khó khăn hơn một chút.
Ngày kia, Cha Combes xuống Rơ Hai gặp một người dân làng Kon Trang, vốn là một trong những người có thế giá nhất làng tên là Ba Nang. Kon Trang là một làng lớn nằm ở phía Bắc xứ Rơ Ngao, là cửa dẫn vào phần lãnh thổ bộ tộc Xê Đăng. Làng Kon Trang cũng thuộc bộ tộc này và cũng nói tiếng Xê Đăng. Tôi quên nhắc là người Xê Đăng và người Jrai có ngôn ngữ khác nhau và cũng khác ngôn ngữ Ba Na. Kon Trang là một trung tâm mua bán giữa dân Rơ Ngao và dân Xê Đăng. Đôi khi người Lào cũng đến đó để bán trâu, mua nô lệ hoặc vàng, đãi từ sông Pô Kô và từ nhiều con suối khác vốn có rất nhiều vàng. Hơn các dân tộc thiểu số khác, dân làng Kon Trang quen nhìn thấy người Lào nên ít sợ hãi khi thấy người ngoại quốc đến. Cha Bề trên Combes nghĩ nên cố gắng làm cho dân làng này chấp nhận tôi. Vì thế, ngài đề nghị với ông Ba Nang đưa tôi đến Kon Trang. Ông liền đồng ý và đã nán ở lại thêm hai ngày để đợi và dẫn tôi đi, cùng đi có một thầy giảng người Kinh. Cha Combes đã đưa tôi đến ở Kon Trang, nghỉ lại một đêm với tôi. Sáng hôm sau, ngài trở về bỏ tôi một mình trong nhiệm sở mới.
Ít ngày sau, Cha Fontaine đến định cư với người dân tộc Jrai tại làng Plei Chư. Như thế, chúng tôi đã tạo thành một tam giác với ba góc là Kon Kơ Xâm, Kon Trang và Plei Chư. Rơ Hai hầu như nằm ở trung tâm của tam giác này. Cha Fontaine và tôi đều cách xa Rơ Hai trọn một ngày đường. Cha Combes cách xa chỉ nửa ngày. Sau một năm làm quen với thuỷ thổ, khí hậu, tôi đã hồi phục phần nào sức khoẻ trước kia và rồi sáng sớm, có thể ra đi từ Kon Trang đến Kon Kơ Xâm cùng ngày, lúc hoàng hôn.
Nhà Rông Tây nguyên 
Rơ-ngao

  Ba-na 

Xê-đăng         
Jơ-rai

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét